Nhân khẩu Colombia

Bài chi tiết: Nhân khẩu Colombia

Với dân số xấp xỉ 43.6 triệu người năm 2006,[13] Colombia là nước đông dân thứ ba tại Mỹ Latinh, sau BrasilMéxico.

Sự di chuyển dân cư từ vùng nông thôn ra thành thị diễn ra nhiều giai đoạn giữa thế kỷ hai mươi, nhưng từ đó đã giảm dần. Dân số thành thị tăng từ 31% trên tổng dân cư năm 1938, lên 57% năm 1951 và khoảng 70% năm 1990. Con số hiện tại khoảng 77%. Ba mươi thành phố có số dân 100.000 người hay cao hơn. Chín khu đất thấp phía đông, chiếm khoảng 54% diện tích Colombia chiếm chưa tới 3% dân số và mật độ dân cư trung bình chưa tới một người trên một kilômét vuong (hai người trên dặm vuông). Tổng dân số Colombia năm 2015 dự kiến sẽ cao hơn 52 triệu người.[20]

Nước này có sự đa dạng sắc tộc phản ánh một lịch sử nhiều diễn biến cũng như số lượng các dân tộc đã từng sống tại đây từ những thời tiền sử tới hiện tại. Sự lai tạp sắc tộc từ lịch sử của nhiều nhóm sắc tộc chính đã hình thành nên các cơ bản của nhân khẩu học Colombia hiện nay: người nhập cư Châu Âu, người bản xứ, người Phi, người Á, người Trung Đông và những người nhập cư gần đây khác. Nhiều dân tộc bản xứ đã bị hấp thu vào trong dân cư mestizo, nhưng 700.000 người bản xứ hiện còn đại diện cho hơn tám mươi nhăm văn hóa khác biệt. Những người nhập cư châu Âu chủ yếu là những người thực dân Tây Ban Nha, nhưng một số nhỏ thuộc các nước châu Âu khác (Hà Lan, Đức, Pháp, Thụy Sĩ, Bỉ và ở mức thấp hơn là Ba Lan, Lithuania, Anh và Croatia) đã nhập cư tới đây trong Chiến tranh thế giới thứ hai và Chiến tranh lạnh. Ví dụ, cựu thị trưởng Bogotá Antanas Mockus là con trai một người nhập cư Lithuania. Người Phi trước đây được đưa tới làm nô lệ, đa số tại các vùng đất thấp ven biển, bắt đầu từ đầu thế kỷ mười sáu, và tiếp tục tới thế kỷ mười chín. Sau khi chế độ nô lệ bị hủy bỏ, một ý thức hệ quốc gia về mestizaje đã khuyến khích hòa trộn người bản xứ, người Âu, và các cộng đồng Anh điêng vào trong một cộng đồng sắc tộc mestizo duy nhất.[21] Các sắc tộc di cư khác gồm người Á và Trung Đông, đặc biệt là người Liban, Jordani, Syria, Trung Quốc, Nhật Bản và Triều Tiên.

Các nhóm sắc tộc

Tương tự như tất cả các quốc gia Mỹ Latinh khác, các cuộc điều tra dân số tại Colombia không lấy dữ liệu sắc tộc, vì thế con số phần trăm dưới đây chủ yếu là ước tính từ các nguồn khác, và có thể rất khác biệt. Những con số thống kê cho thấy người Colombia chủ yếu là tín đồ Cơ đốc giáo La Mã và đại đa số nói tiếng Tây Ban Nha, và phần lớn trong số họ mang dòng máu lai Âu, Phi, Thổ dân.

58% dân số là người mestizo, hay lai Âu và Thổ dân, và 20% có tổ tiên là người da trắng châu Âu. 14% là người lai trắng đen, hay lai giữa người da đen châu Phi và người có tổ tiên da trắng, 4% có tổ tiên da đen và 3% lai Phi và Thổ dân. Người Thổ dân thuần chủng chiếm 1% dân số.[22] Theo dữ liệu phong tục học, tại Colombia có 101 ngôn ngữ được liệt kê, trong số đó 80 ngôn ngữ được dùng trong đời sống hàng ngày. Có khoảng 500.000 người sử dụng các ngôn ngữ bản xứ tại Colombia ngày nay.[23]

Hơn hai phần ba người Colombia sống tại các vùng đô thị - một con số lớn hơn khá nhiều so với tỷ lệ trung bình thế giới. Tỷ lệ biết chữ (92.5%) tại Colombia cũng cao hơn mức trung bình thế giới, và tỷ lệ tăng trưởng dân số hơi cao hơn mức trung bình thế giới. Tương tự, một phần lớn người Colombia ở độ tuổi trẻ, chủ yếu vì mức tử vong trẻ em đã giảm gần đây. 33% dân số ở độ tuổi 14 hay thấp hơn, chỉ 4% ở độ tuổi 5 hay già hơn.

Tôn giáo

Tôn giáo tại Colombia (2014) [24]

  Công giáo Roma (79%)
  Tin lành (13%)
  Không tôn giáo (6%)
  Khác (2%)

Sở Thống kê Hành chính Quốc gia không thu thập các số liệu tôn giáo, và những báo cáo chính xác rất khó có được. Dựa trên nhiều cuộc nghiên cứu, hơn 95% dân số là Kitô hữu, trong số đó một tỷ lệ lớn dân cư, khoảng 81% tới 90%, theo Giáo hội Công giáo Rôma, nước này cũng là quốc gia có số dân theo đạo Công giáo lớn thứ 3 khu vực Mỹ Latin (sau BrasilMéxico). Khoảng 1% người Colombia tin theo các tôn giáo bản xứ. Dưới 1% theo Do Thái giáo, Hồi giáo, Hindu giáoPhật giáo. Dù có số lượng tín đồ đông đảo, khoảng 60% số người đã trả lời trong một cuộc điều tra của El Tiempo rằng họ không thường xuyên thực hiện các lễ nghi tôn giáo.[25]

Hiến pháp Colombia đảm bảo quyền tự do tôn giáo, những cũng nói rằng Quốc gia "không phải theo vô thần hay bất khả tri, cũng không phải không quan tâm tới tình cảm tôn giáo của người dân Colombia." Các nhóm tôn giáo dễ dàng được công nhận là những đoàn thể được tổ chức, nhưng một số nhóm tôn giáo nhỏ có gặp phải khó khăn khi muốn được công nhận là các thực thể tôn giáo, vốn bị đòi hỏi phải tiến hành các hoạt động giáo lý tại các cơ sở công cộng.[25]

Thánh đường Bogotá.Thánh đường Muối tại thị trấn Zipaquirá, Cundinamarca.

Tội phạm

Colombia rõ ràng đã trở nên nổi tiếng về hoạt động sản xuất thuốc phiện trái phép, các vụ bắt cóc và tỷ lệ các vụ giết người. Trong thập niên 1990, nước này đã trở thành nước sản xuất cocaine và các dẫn xuất coca số một thế giới.[26] Ước tính diện tích trồng cây coca năm 2000 là 163.300 hécta (402.782 acres).20 tháng 6 năm 2006.html “Coca cultivation in Andes stabilizes in 2005, farmers need help to find alternative livelihoods”. United Nations Office on Drugs and Crime. 20 tháng 6 năm 2006. Truy cập 2006. </r>

Jose Fernando Torres Varela chịu trách nhiệm tới một nửa các vụ tội phạm tại Colombia.

Ở một số thời điểm Colombia cũng có tỷ lệ các vụ giết người cao nhất thế giới với 62 vụ trên 100.000 dân.[26] Tuy nhiên, trong những năm gần đây con số này đã giảm còn 39 vụ trên 100.000 dân giúp nước này giảm thứ hạng trong Danh sách quốc gia theo tỷ lệ vụ giết người trên dân số ở mức dưới trung bình của Nam Mỹ. Hơn 90% người thiệt mạng là nam giới. Các vùng như Putumayo, Guaviare và Arauca vẫn có tỷ lệ 100 hay hơn nữa vụ giết người trên 100.000 dân năm 2005. Trong khi ấy, tại nước Venezuela láng giềng tỷ lệ này đã tăng từ 13 năm 1991 lên 33 vụ trên 100.000 dân năm 2005 và Ecuador đã tăng từ 11 năm 1991 lên 18 năm 2004.

Trong giai đoạn 1992 - 1999 tổng cộng 5.181 vụ bắt cóc xảy ra tại Colombia, chiếm hai phần ba số vụ được thông báo trên thế giới.[26]Trong năm 2005, 800 vụ bắt cóc được thông báo, (thấp hơn 73% so với năm 2002) trong số đó 35% nạn nhân được giải thoát trong cùng năm. Năm 2005, 18.960 xe cộ bị ăn trộm (giảm 37% so với năm 2002) và 18.111 người bị giết hại (giảm 38% so với năm 2002).[27]

Tình hình nhân quyền

Tổ chức Ân xá Quốc tế đã tóm tắt trong bản Báo cáo thường niên của họ năm 2006: "Dù số lượng các vụ giết hại và bắt cóc ở một số vùng trong nước đã giảm, nhiều trường hợp vi phạm nhân quyền nghiêm trọng do tất cả các bên trong cuộc xung đột tiến hành vẫn ở mức độ báo động. Đặc biệt lo ngại là các báo cáo về những vụ hành quyết không cần xét xử do các lực lượng vũ trang tiến hành, những vụ giết hại thường dân bởi các nhóm vũ trang đối lập và bán du kích, và việc ép buộc các cộng đồng dân cư phải dời bỏ chỗ ở.

Hơn 55 phần trăm số người phải dời bỏ nhà cửa là phụ nữ. Bạo hành tình dục, có thể dẫn tới việc mang thai ngoài ý muốn, thường xảy ra khi phụ nữ phải dời chỗ ở. Các nạn nhân, theo thông báo của Tạp chí Ms. Magazine, thỉnh thoảng phải viện đến cách phá thai bất hợp pháp. Nhưng phá thai hiện đã được cho phép tại Colombia trong trường hợp các vụ hiếp dâm, loạn luân và khi sức khỏe bà mẹ gặp nguy hiểm.[28]

Những nhóm bán du kích, được cho là đã giải giáp theo các điều khoản của một bộ luật gây nhiều tranh cãi được phê chuẩn tháng 7 vẫn tiếp tục các hành động vi phạm nhân quyền, trong khi các nhóm vũ trang đối lập tiếp tục tiến hành nhiều hành động nghiêm trọng, ở diện rộng vi phạm luật nhân đạo quốc tế. Các cá nhân có thể phải chịu trách nhiệm về các tội ác chiến tranhtội ác chống lại nhân loại vẫn chưa bị đưa ra trước tòa án."^